Hệ thống từ vựng tiếng việt

*
fashionssories.com have developed this website for freely access to all people who want to study, research, and understand linguistics generally and Vietnamese specifically. Vietnamese Corpus of fashionssories.com with more than 150.000.000 syllables. All home and foreign collaborations and cooperations with Our Centre are welcome !

Vấn đề chuẩn hoá từ vựng tiếng Việt

GS TS NGUYỄN THIỆN GIÁP

1. Từ vựng chuẩn và chuẩn hoá từ vựng

Như trên đã chứng minh, gần một thế kỉ qua, từ vựng tiếng Việt đã lớn mạnh phi thường cả về chất lượng lẫn số lượng. Nhưng do đã được phát triển vào những thời kì khác nhau, trong những hoàn cảnh khác nhau, nên từ vựng tiếng Việt hiện nay không khỏi còn những chỗ chưa thống nhất. Điều đó gây cản trở cho sự nghiệp giáo dục và phát triển khoa học của chúng ta. Cho nên, chuẩn hoá từ vựng tiếng Việt là một yêu cầu cấp bách hiện nay.

Bạn đang xem: Hệ thống từ vựng tiếng việt

Nói đến chuẩn hoá từ vựng thì phải hiểu thế nào là chuẩn từ vựng. Theo chúng tôi, từ vựng chuẩn là những từ đã được trau chuốt, gọt giũa, đã được sàng lọc để phục vụ hữu hiệu nhất cho yêu cầu giao tiếp văn hoá của toàn dân tộc. Như vậy, chuẩn từ vựng được hình thành dần dần trong quá trình sử dụng. Chuẩn từ vựng không đứng yên tại chỗ mà cũng vận động phát triển theo thời gian. Chuẩn hoá từ vựng thuộc phạm trù quy phạm hoá (cordination) ngôn ngữ. Quy phạm hoá ngôn ngữ là kết quả nhận thức khoa học về những quy luật thể hiện chuẩn ở một giai đoạn nhất định của sự phát triển ngôn ngữ, là sự tập hợp những quy luật về cách dùng từ và các hình thái trong mọi phong cách của ngôn ngữ văn hoá.

Nội dung của chuẩn hoá từ vựng bao gồm cả ba mặt:

○ Mặt ý nghĩa của từ ngữ

○ Mặt ngữ âm của từ ngữ

○ Mặt chữ viết của từ ngữ

Về mặt ngữ nghĩa, một đơn vị từ vựng hợp chuẩn là đơn vị có khả năng diễn đạt chính xác nhất nội dung cần diễn đạt, tự thân nó lại ngắn gọn, không gây hiểu lầm. Trước đây, có người đã dùng từ “mẹo” để diễn đạt khái niệm “ngữ pháp”. Mặc dù từ “mẹo” ngắn gọn, lại rất Việt Nam nhưng không chính xác, dễ gây hiểu lầm nên không thể coi là từ hợp chuẩn. Khi dùng từ này, người ta dễ liên tưởng đến nghĩa gốc của nó là “cách khôn ngoan, thông minh được nghĩ ra trong một hoàn cảnh nhất định để giải quyết việc khó”, trong khi ngữ pháp lại là quy luật khách quan, không phải con người tự nghĩ ra. Mặt khác, khi cần diễn đạt khái niệm “ý nghĩa ngữ pháp” thì nếu nói “ý nghĩa mẹo” thì thật khó mà hiểu được. Để diễn đạt khái niệm “performative” nếu dùng thuật ngữ “ngữ vi” cũng dễ nhầm là phạm vi ngôn ngữ. Theo chúng tôi, thuật ngữ “ngôn hành” là thích hợp hơn.

Về mặt ngữ âm, hệ thống ngữ âm của tiếng Việt được hình thành dần dần trên cơ sở phương ngữ Bắc Bộ với sự bổ sung thêm một số yếu tố của các phương ngữ khác. Vì thế, đứng trước những biến thể địa phương, cần lựa chọn biến thể nào phù hợp với hệ thống ngữ âm chuẩn của tiếng Việt. Chẳng hạn, giữa các biến thể , nhâng dângnhân dân, dĩađĩa, gáogạo,... thì vô, nhân dân, đĩa, gạo,... là chuẩn. Khi các địa phương dùng các từ khác nhau để chỉ cùng một sự vật, hiện tượng thì từ của phương ngữ Bắc Bộ được coi là chuẩn. Chẳng hạn, giữa các từ đâu, nỏkhông, chộthấy,... thì các từ đâu, không, thấy là chuẩn. Cần lưu ý là các tiêu chuẩn của cái gọi là chuẩn chỉ tồn tại ở giá trị xã hội của nó chứ không động chạm đến bản thân hệ thống cấu trúc của nó. Vì thế, những hình thức ngôn ngữ khác với chuẩn không phải là những hình thức “dưới chuẩn” hoặc “không chuẩn”. Trong những hoàn cảnh giao tiếp nhất định vẫn có thể dùng nó. Thực tế, chuẩn ngữ âm hình thành dần dần, không thể đòi hỏi các địa phương trong cả nước phát âm các từ thống nhất ngay được. Tuy nhiên, không thể coi nhẹ vấn đề chính âm. Vai trò của nhà trường và các phương tiện thông tin đại chúng là vô cùng quan trọng trong vấn đề này.

Về mặt chữ viết, chữ quốc ngữ là cơ sở tốt để thống nhất chính tả giữa các vùng. Ngôn ngữ trước hết là để nói, nhưng trong thực thế giao lưu văn hoá và xã hội ngày nay, chữ viết có một tác dụng quyết định đối với cuộc sống. Vì thế, chuẩn chính tả là cơ sở để bảo đảm và củng cố tính thống nhất của ngôn ngữ. Người miền Nam có thể nói coong cháo, nhâng dâng, dô,... nhưng khi viết thì phải viết con cháu, nhân dân, vô,... Người miền Bắc có thể phát âm lẫn lộn châu với trâu, lồi với nồi, xung với sung,... nhưng khi viết thì phải viết con trâu, châu báu, xung đột, bổ sung, lồi lõm, cái nồi,...

Trong việc chuẩn hoá từ vựng tiếng Việt, cần lưu ý ba mảng khác nhau: các từ thông thường, các tên riêng, và các thuật ngữ khoa học, kĩ thuật.

2. Chuẩn hoá các từ ngữ thông thường

Đối với các từ ngữ thông thường, nổi lên là vấn đề cách viết và các đọc. Trường hợp có nhiều biến thể ngữ âm khác nhau, cách viết và cách đọc nên theo những quy định của Hội đồng Chuẩn hoá chính tả và Hội đồng Chuẩn hoá thuật ngữ năm 1983, như sau:

a. Khi thói quen đã làm cho mặt ngữ âm của từ biến đổi và ít nhiều có khác với từ nguyên (gốc Việt hoặc gốc Hán), thì cần phải căn cứ vào thói quenmà xác định chuẩn chính tả, bởi vì thói quen của đại đa số trong nhân dân là một tiêu chí có ý nghĩa quyết định. Ví dụ:

chỏng gọng (so sánh với chổng gọng)

đại bàng (so sánh với đại bằng)

b. Khi thói quen chưa làm rõ một hình thức ngữ âm nào có tính chất ổn định thì nên dựa theo tiêu chí về từ nguyên để xác định chuẩn hoá chính tả, tiêu chí này có ý nghĩa quan trọng về mặt văn hoá, đáng được coi trọng. Ví dụ:

trí mạng (so sánh với chí mạng)

Tuy nhiên, cần tránh truy từ nguyên một cách tuỳ tiện.

c. Khi trong thực tế đang tồn tại hai hình thức chính tả mà chưa xác định được một chuẩn duy nhất thì có thể chấp nhận cả hai hình thức ấy. Ví dụ:

eo sèo eo xèo

sứ mạng sứ mệnh...

Hội đồng lưu ý rằng, trong các trường hợp trên, khi chuẩn chính tả đã được xác định, thì cần nghiêm túc tuân theo, đặc biệt ở sách giáo dục.

Khi đọc, giáo viên và học sinh cần cố gắng dựa vào chuẩn chính tả mà phát âm. Trong ngôn ngữ nói thì chưa yêu cầu cao về phát âm chuẩn bởi vì chuẩn hoá và thống nhất phát âm là một công việc phức tạp và lâu dài.

Trường hợp phát âm thống nhất nhưng chữ viết khác nhau, nên theo quy định về chính tả trong sách giáo khoa cải cách giáo dục năm 1980 như sau:

Các âm tiết có nguyên âm i ở cuối thì viết thống nhất bằng i, trừ uy(như: duy, tuy, quy...), ví dụ: kì dị, lí trí, mĩ vị... Chú ý: i hoặc y đứng một mình hoặc đứng đầu âm tiết vẫn viết theo thói quen cũ, ví dụ: ý nghĩa, y tế, ỉ eo, ầm ĩ, im, yêu...

Đối với các từ ngữ thông thường, chuẩn hoá về mặt ngữ nghĩa được đặt ra đối với những sáng tạo mới (từ mới, nghĩa mới, cách dùng mới) chỉ được coi là hợp chuẩn khi nó bắt nguồn từ cơ cấu nội tại, từ xu hướng phát triển của bản thân tiếng Việt. Chúng ta có thể nói các phương tiện thông tin đại chúngthì cũng có thể nói các phương tiện giao thông đại chúng; máy đẻ, có thể coi là hợp chuẩn vì mô hình cấu tạo chúng đã có trong tiếng Việt: máy khoan, máy giặt...

3. Chuẩn hoá các thuật ngữ khoa học, kĩ thuật

Các thuật ngữ khoa học, kĩ thuật phải được coi là một bộ phận có tính chất riêng trong từ vựng tiếng Việt nói chung, bởi vì những khái niệm khoa học không phải là của riêng của người Việt mà là tải sản chung của các dân tộc nói các tiếng khác nhau. Xác định chuẩn mực cho bộ phận từ vựng này phải tính cả đến mối tương quan với dân tộc và quốc tế.

Tiêu chí nổi lên hàng đầu là phải đảm bảo tính chính xác của khái niệm. Nếu các thuật ngữ tự đặt ra trên cơ sở các yếu tố có sẵn của tiếng Việt không bảo đảm tính chính xác thì thà tiếp nhận thuật ngữ nước ngoài còn hơn. Nếu các thuật ngữ tự đặt ra đảm bảo tính chính xác thì tất nhiên không cần tiếp nhận các thuật ngữ nước ngoài. Nếu tính chính xác của khái niệm được đảm bảo thì mặc nhiên thuật ngữ có được tính hệ thống và tính quốc tế về nội dung. Không nên câu nệ vào tính hệ thống và tính quốc tế về hình thức mà phương hại đến tính chính xác của thuật ngữ. Muốn thuật ngữ có tính chính xác, thì thuật ngữ nên có một nghĩa, tránh hiện tượng đồng nghĩa, đồng âm có thể gây lẫn lộn, hiểu lầm. Do vậy, theo chúng tôi, trong ngôn ngữ học, các thuật ngữ “nghĩa sở chỉ” (referentive meaning), “nghĩa sở biểu” (significative meaning), “động từ ngôn hành” (performative verb), “tiền đề” (presuposition), “hành động tại lời” (locutationary act), “hành động ngoài lời” (illocutationary act), “hành động sau lời” (perlocutationary act),... thích hợp hơn các thuật ngữ: nghĩa biểu vật, nghĩa biểu niệm, động từ ngữ vi, tiền giả định, hành động tạo lời, hành động ở lời, hành động mượn lời (hành động xuyên ngôn)...

Theo giáo sư Lê Khả Kế, những thuật ngữ tự tạo sau đây chẳng những dễ hiểu mà cũng chính xác và có hệ thống:

(sâu bọ) cánh cứng coléoplère

(sâu bọ) cánh da dermaplere

(sâu bọ) cánh màng hymenoplère

(sâu bọ) cánh thẳng orthoplère

(sâu bọ) cánh úp plécoplère

(sâu bọ) hai cánh diplère

đơn thức monôme

nhị thức bimôme

tam thức triôme

đa thức polyôme

Để thẩm định tính chính xác của thuật ngữ, cần nắm vững nội dung khái niệm mà thuật ngữ diễn đạt. Chỉ riêng các nhà ngôn ngữ học thì sẽ không làm nổi việc này mà cần có sự phối hợp giữa các nhà ngôn ngữ học với các nhà khoa học thuộc các ngành khác. Công việc cấp bách hiện nay là biên soạn các cuốn từ điển khái niệm chuyên ngành. Trên cơ sở đó, chúng ta mới có điều kiện để chọn lựa hợp lí những thuật ngữ đang được sử dụng trên sách báo hiện nay.

Đối với những thuật ngữ tiếp nhận từ tiếng Hán, điều cần lưu ý là: Mặc dù chúng ta tiếp nhận các thuật ngữ khoa học từ tiếng Hán hiện đại nhưng chúng ta vẫn đọc theo âm Hán Việt và viết theo cách viết của chữ quốc ngữ. Vì thế, với người không biết chữ Hán, từ ngữ tự cấu tạo (trên cơ sở các yếu tố Hán Việt) và từ ngữ tiếp nhận của tiếng Hán không khác gì nhau bao nhiêu. Có lẽ trong một số trường hợp, trật tự các yếu tố trong thuật ngữ mới tiếp nhận không thuận với tư duy Việt Nam. Ví dụ: dân ý, dân chủ tập trung, hạ tầng cơ sở, thượng tầng kiến trúc... Trong trường hợp này, có thể đảo lại là: ý dân, tập trung dân chủ, cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng...

Đối với các thuật ngữ tiếp nhận từ các ngôn ngữ Ấn-Âu, chủ yếu là từ tiếng Pháp, tiếng Anh và tiếng Đức thì vấn đề nổi lên là chính tả và phát âm. Gần một thế kỉ qua, có hai xu hướng luôn luôn tranh chấp nhau:

○ Một là, xu hướng phiên theo âm là chính

○ Hai là, xu hướng phiên theo chữ là chính

Xu hướng đầu xem ngôn ngữ như một hệ thống thuần nhất, chỉ chấp nhận vần và con chữ tiếng Việt và cách viết rời từng âm tiết. Thuật ngữ phương Tây, khi vào tiếng Việt thì phải tuân theo cách viết và cách đọc của tiếng Việt. Những người ủng hộ xu hướng này cho rằng làm như vậy mới đảm bảo tính dân tộc tính đại chúng của thuật ngữ.

Xu hướng thứ hai xem ngôn ngữ là một hệ thống của hệ thống, chuẩn hoá thuật ngữ phải tính tới tương lai, tới giao lưu quốc tế. Vì thế, trong khi duy trì những thói quen phát âm, ghép vần đã được quy định trong hệ thống chữ quốc ngữ, vẫn có thể dùng một số ít vần không hợp với cấu trúc âm tiết tiếng Việt, và một số chữ cái vốn không có trong hệ thống chữ cái tiếng Việt hiện nay.

Trên đây là nhận xét về mặt lí luận. Trong thực tế, còn có rất nhiều giải pháp nửa vời nữa. Cho nên, bức tranh về thuật ngữ ngoại nhập ở Việt Nam rất đa dạng. Cùng một thuật ngữ gốc, nhưng có nhiều dạng tồn tại khác nhau ở Việt Nam. Ví dụ:

○ an-đe-hít, anđêhit, an dê hit, aldehyd

○ gơ-lu-cô-dơ, glu-cô, glucô, glu-cô-da, glucos

○ pơ-rô-tít, prôtit, protit, protid

○ ...

Trong sự chuẩn hoá thuật ngữ khoa học gốc Ấn-Âu, cần tính tới sự phát triển của ngôn ngữ khoa học trong tương lai, tính tới sự phá triển của khoa học, kĩ thuật cũng như sự phá triển của nền giáo dục các cấp sẽ tạo nên những triển vọng mới về năng lực ngôn ngữ của nhân dân. Trên cơ sở những ý kiến tiếp nhận qua các cuộc hội thảo khoa học trong các năm 1979, 1980 tại Hà Nội, Huế và thành phố Hồ Chí Minh, Hội đồng Chuẩn hoá Chính tả và Hội đồng Chuẩn hoá Thuật ngữ năm 1983 cho rằng: “đối với những thuật ngữ vốn ở nước ngoài mà được dùng trong tiếng Việt thì sự quy định chính tả nên dựa trên hình thức phổ biến của những thuật ngữ ấy trên chữ viết. Trong ngôn ngữ khoa học, mà chủ yếu là ngôn ngữ viết, cần nhớ kĩ mặt chữ thuật ngữ và cần khai thác giá trị thông tin của nó. Đối với những thuật ngữ này, chính tả là chính. Về ngữ âm thì dần dần hướng dẫn để tiến tới có được cách phát âm thống nhất trong cả nước. Cụ thể, Hội đồng chấp nhận:

○ Các phụ âm đầu và tổ hợp phụ âm đầu vốn không có trong tiếng Việt, như: bl, br, cr, p, z, str, w

○ Các phụ âm cuối vốn không có trong tiếng Việt, như: d, d, f, g, j, l, r, s, v, w, z

Đối với những thuật ngữ đã được dùng phổ biến trong tiếng nước ngoài thì có thể dùng một hình thức đã thành thói quen trên phạm vi quốc tế. Hình thức ấy có thể được điều chỉnh, như có thể rút gọn, ví dụ: gram, lít, mét. Đó là những điều chỉnh có thể chấp nhận được, vì những thuận tiện nhất định và do những thói quen nhất định đã hình thành trong thực tiễn.

Trong sự điều chỉnh ấy, nên tránh lấy yêu cầu đồng hoá theo ngữ âm (và theo chữ viết) tiếng Việt làm tiêu chí chủ đạo. Đồng thời, yêu cầu chú ý đến mối quan hệ giữa các thuật ngữ trong toàn bộ hệ thống”

4. Chuẩn hoá các tên riêng

Tên riêng là gì? Câu hỏi tưởng như đơn giản nhưng không phải không có vấn đề. Trong các sách ngữ pháp phổ thông, người ta đã phân biệt danh từ chung và danh từ riêng. Danh từ chung là danh từ dùng để gọi những sự vật thuộc cùng một loại, danh từ riêng là những danh từ dùng để làm tên riêng để gọi tên từng sự vật, đối tượng riêng lẻ. Những tên người như: Hồ Xuân Hương, Ngô Văn Sở,... Những tên đất như: Nghệ An, Thanh Hoá,... Những tên sông như: Hồng Hà, Cửu Long,... Những tên công trình như: cầu Long Biên, chùa Một Cột, Truyện Kiều,... Những tên gọi các sự kiện lịch sử như: Hội nghị Paris, Cách mạng Tháng Tám,... Đó đúng là những tên gọi của những cá nhân hoặc cá thể. Nhưng tên gọi của các dân tộc như Việt Nam, Lào, Ê-đê, Tày, Nùng,... lại chỉ một loại người, chứ không phải chỉ từng cá nhân mà vẫn lại được gọi là tên riêng. Trong thiên hà của chúng ta, chỉ có một mặt trời, một mặt trăng, nhưng mặt trời, mặt trănglại không được coi là tên riêng. Đến tên các tổ chức, cơ quan, đoàn thể, như: Bộ Ngoại giao, Vụ Tổ chức Cán bộ, Chính phủ, Quốc hội,... thì ranh giới giữa cái chung và cái riêng là ở đâu? Có lẽ tên riêng nên được coi là những từ, ngữ dùng để gọi tên những thực thể vật chất và tinh thần có vai trò quan trọng trong đời sống văn hoá - xã hội, tồn tại với tư cách là những cá thểtrong tư duy của từng dân tộc. Đối với người Việt, đó là:

○ Những tên chỉ người, tên cá nhân, dân tộc,... Ví dụ: Nguyễn Trãi, Việt Nam,...

○ Những tên chỉ nơi chốn, núi, sông, hồ, tỉnh,... Ví dụ: (núi) Tản Viên, (sông) Hồng, (tỉnh) Nghệ An,...

○ Những từ ngữ chỉ công trình xây dựng và công trình văn hoá. Ví dụ: (chùa) Dâu, (cầu) Long Biên, Truyện Kiều,...

○ Những từ ngữ chỉ các cơ quan, tổ chức xã hội,... Ví dụ: Đại học Quốc gia Hà Nội, Bộ Giáo dục và Đào tạo,...

○ Những từ ngữ chỉ từng thời kì, từng sự kiện lịch sử,... Ví dụ: (thời kì) Lí - Trần, Cách mạng Tháng Tám, Hội nghị Paris, Nghị quyết 8 BCHTWĐ,...

Cần phân biệt tên riêng tiếng Việt và tên riêng không phải tiếng Việt.

Xem thêm: Xem Tử Vi Giờ Sinh - Xem Tử Vi Trọn Đời Theo Ngày Tháng Năm Sinh

Đối với tên riêng tiếng Việt, vấn đề đặt ra là phải xác định các thành tố của tên riêng và cách viết hoa tên riêng như thế nào cho hợp lí.